1.
Chọn thầy học, chọn sách đọc
Chỉ những người có năng lực đặc biệt xuất sắc mới có khả năng tự học và
đạt hiệu quả như mong muốn. Hầu hết thí sinh dự thi đại học và cao đẳng
không có được năng lực ấy.
Vì vậy, các em cần sự hướng dẫn của những cuốn sách tốt, những thầy cô
giỏi, có trách nhiệm và giàu kinh nghiệm. Hiện nay, tài liệu tham khảo
và luyện thi tràn ngập thị trường. Để mua được sách tốt, các em nên nhờ
thầy cô có uy tín giới thiệu.
Khi đọc tài liệu tham khảo, các em nên ghi chép, suy nghĩ, tán thành,
hoặc phản đối, bởi không phải mọi kiến thức trong sách vở đều đúng.
Những thắc mắc, nghi ngờ, nên ghi lại để hỏi cho rõ.
Tất nhiên, việc đọc tài liệu tham khảo là cần thiết, nhưng không thể
thay thế được việc nghe giảng trên lớp. Nếu được thầy cô giỏi, tâm huyết
giảng dạy và hướng dẫn, các em sẽ thấy văn học hấp dẫn và thú vị hơn,
hiểu vấn đề sâu sắc hơn…
Nếu học ở các trung tâm luyện thi, các em nên tìm học những người có khả
năng trang bị một hệ thống phương pháp, kĩ năng, chứ không nên quá
thiên về chi tiết bài giảng.
2. Tham khảo đề thi, đáp án, biểu điểm
Các em nên tham khảo đề thi, đáp án, biểu điểm chính thức và dự bị những
năm trước của Bộ GD&ĐT. Nó sẽ giúp học sinh có một định hướng rõ
ràng hơn trong việc ôn tập và làm bài thi.
Khi đọc những tài liệu này, cần lưu ý đến điểm số dành cho từng ý; tại
sao ý này điểm nhiều, ý kia điểm ít; cũng như trình tự sắp xếp các ý,
phạm vi dẫn chứng…
Các em cũng nên học hỏi cách làm bài, kiến thức, cách mở bài, kết bài,
triển khai ý, cách chuyển ý, trình bày, diễn đạt… qua những bài văn đạt
điểm cao trong các kì thi đại học trước đó, đồng thời so sánh các bài
viết này với đáp án và biểu điểm của Bộ, xem bài làm thiếu ý nào, có ý
nào mới hơn, tại sao lại được điểm cao như thế…
Các em có thể tìm thấy các tài liệu này tại địa chỉ sau:
http://ts.edu.net.vn của Bộ GD&ĐT.
3. Không học tủ, nhưng cần có trọng tâm
Có thí sinh cho rằng năm trước, đề thi đã ra vào bài này, phần này, nên
năm sau sẽ không rơi vào bài đó nữa. Nhận thức như vậy là chủ quan, vừa
sai lầm, vừa thiển cận.
Nhiều em ngại khó, nên thường bỏ qua các bài khó hoặc ít hấp dẫn như
Người lái đò sông Đà, Các vị La Hán chùa Tây phương…Nhưng đề thi vẫn có
thể rơi vào các bài đó, mà khi đề đã ra, thì dù không thích cũng phải
làm.
Đề thi môn Văn thường kiểm tra toàn diện kiến thức văn học sử (về giai
đoạn văn học 1945 - 1975 và 5 tác giả), cũng như tác phẩm văn học cả
trước và sau Cách mạng, cả thơ và văn, thậm chí cả kịch (như chương
trình phân ban), đồng thời kiểm tra toàn diện các kĩ năng tóm tắt, bình
giảng, phân tích, so sánh, giải thích, chứng minh...
Trước đây, dung lượng kiến thức văn học lãng mạn và văn học hiện thực
trước Cách mạng chỉ chiếm khoảng 30% (câu 3 điểm), nhưng trong đề thi
của khối D, M các năm 2002 và 2007 đã chiếm tới 50% (câu 5 điểm).
Vì vậy, các em nên cố gắng ôn tập đều ở tất cả các phần, các bài trong
chương trình thi, không nên học tủ. Với cách ra đề phân thành nhiều câu,
nhiều phần như chủ trương của Bộ, thì học tủ là rất nguy hiểm. Tuy vậy,
các em vẫn nên ôn tập có trọng tâm, trọng điểm.
Bên cạnh ôn tập kiến thức, cần rèn luyện kĩ năng làm các kiểu bài tóm
tắt về tác giả, tác phẩm và giai đoạn văn học; kĩ năng phân tích văn
xuôi và bình giảng thơ; kĩ năng phân tích đề, tìm ý, triển khai ý, mở
bài, kết bài, chuyển đoạn, trình bày, diễn đạt…
Cần bám sát chương trình của Bộ và sách giáo khoa, vì đó là văn bản pháp
quy của nhà nước, mà đề thi không được nằm ngoài. Lưu ý rằng tất cả
những gì có trong sách giáo khoa đều có thể thi.
4. Khám phá tác phẩm trong các mối liên hệ
* Các mối liên hệ bên ngoài:
Tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của nhà văn, nhưng cũng là con đẻ
của hoàn cảnh lịch sử, thời đại, là nơi ghi dấu ấn tâm hồn, tư tưởng,
tài năng và tâm huyết nhà văn trong một thời điểm nhất định. Muốn nắm
bắt, cần phải biết tác phẩm đó gắn liền với hoàn cảnh lịch sử nào.
Ở đây, môn văn gián tiếp đòi hỏi thí sinh phải có kiến thức về lịch sử,
nếu không khó mà phân tích đúng. Vì vậy, các em cần nắm chắc hoàn cảnh
ra đời, ý nghĩa nhan đề và kết cấu cảm hứng để hiểu sâu và chính xác về
nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật tác phẩm, đồng thời qua tác
phẩm phải thấy được cả hiện thực thời đại mà nhà văn sống và sáng tác.
“Qua nhà thơ, người ta tìm thấy tầm cỡ thời đại” (Jiri Worlker). Nếu
không ra đời vào mùa xuân năm 1948, thời điểm mà vấn đề “nhận đường”
(Nguyễn Đình Thi), vấn đề “lột xác” (Nguyễn Tuân) đang đặt ra một cách
gay gắt đối với các văn nghệ sĩ trí thức tiểu tư sản lớp trước, thì “Đôi
mắt” sẽ không phải là tuyên ngôn nghệ thuật của một thế hệ nhà văn đi
theo kháng chiến như Nam Cao, Tô Hoài.
Mặt khác, cần tránh xu hướng xã hội học dung tục, chỉ tìm thấy ở văn
chương những ý nghĩa xã hội và đạo đức. Chẳng hạn, không nên hiểu dòng
thơ “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc”(Chiều tối - Hồ Chí Minh) là “tố cáo
chế độ Quốc dân đảng bóc lột sức lao động của trẻ em”, hoặc dòng thơ
“Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san” (Giải đi sớm - Hồ Chí Minh ) là
“nhân dân ủng hộ lãnh tụ” hay “bọn lính áp giải vây quanh người tù cô
đơn nơi đất khách” như có người từng hiểu…
Để hiểu sâu sắc và chính xác về tác phẩm, cần đặt nó trong mối liên hệ
với quan điểm sáng tác, tư tưởng và phong cách nghệ thuật của nhà văn.
Chỉ khi liên hệ với quan niệm về người tài của Nguyễn Tuân, mới hiểu
được tại sao Huấn Cao và ông lái đò sông Đà lại được nhà văn ngợi ca là
những người tài hoa, nghệ sĩ hơn đời.
“Thơ duyên” chính là hiện thân cho quan điểm “Để tâm hồn ràng buộc bởi
muôn dây/ Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến” của Xuân Diệu, còn"Hai đứa
trẻ"là sự thực thi thiên chức của một nhà văn luôn khát khao “nâng đỡ
cái tốt đẹp để trong đời có nhiều công bằng hơn, yêu thương hơn”
Khi tìm hiểu một tác phẩm cũng phải đặt nó trong mối liên hệ mật thiết
với giai đoạn văn học, trào lưu văn học, thời kì hoặc phương pháp sáng
tác. Chẳng hạn, khi tìm hiểu các bài thơ của Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc
Tử và Thâm Tâm, cần đặt chúng trong đặc điểm tư tưởng nghệ thuật của
phong trào Thơ Mới lãng mạn 1932 - 1945.
Cần lưu ý các tác phẩm Hai đứa trẻ, Chữ người tử tù…được sáng tác theo
phương pháp lãng mạn nhưng vẫn có một cảm quan hiện thực sâu sắc.
* Các mối liên hệ bên trong:
Mỗi tác phẩm văn chương thường có hai phần nổi bật: nội dung tư tưởng và
hình thức nghệ thuật. Hai phần này thường thống nhất với nhau. Tìm hiểu
nội dung là nhằm chỉ ra tư tưởng và quan niệm của nhà văn về con người
và cuộc sống, tìm hiểu hình thức là để chỉ ra tài năng nghệ thuật của
nhà văn, cũng như sự thống nhất và phù hợp của hình thức với nội dung.
Rất ít khi đề thi yêu cầu trực tiếp là làm rõ hai mặt này. Tuy nhiên,
trên thực tế, để giải quyết vấn đề nào đó của đề thi, trong quá trình đi
vào nội dung nhất thiết phải trình bày nội dung đó được biểu đạt bằng
những phương tiện nghệ thuật nào, tìm sự hài hoà giữa nội dung và hình
thức, giữa ý nghĩa tư tưởng và giá trị nghệ thuật.
Nên từ hình thức tìm ra nội dung và tránh diễn xuôi tác phẩm, văn thơ.
Để diễn tả những cung bậc của một tình yêu trong xa xôi cách trở với nỗi
nhớ mong “cả trong mơ còn thức”, với niềm lo nghĩ, với tình cảm thủy
chung, tha thiết, chân thành và cả niềm tin mãnh liệt vào sức mình trong
việc vượt qua những xa xôi, cách trở, mất còn… để đến với người mình
yêu, Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh sóng xa bờ, nhớ bờ, đồng thời sử dụng
thể thơ 5 chữ với lối ngắt nhịp cân đối, âm điệu hài hòa.
Nhịp điệu của bài thơ chính là nhịp điệu của một cõi lòng đang bị con
sóng tình yêu khuấy động.
Thế giới nghệ thuật của tác phẩm là thế giới hình tượng do nhà văn sáng
tạo ra, có quy luật riêng, thang bậc giá trị riêng, thời gian và không
gian nghệ thuật riêng.
Vì vậy khi tìm hiểu tác phẩm, không được đồng nhất nó với thế giới thực
tại ngoài đời, ngay cả khi nhân vật được xây dựng từ một nguyên mẫu có
thật như Hoàng đế An nam trong “Vi hành”, Hoàng trong “Đôi mắt”, Đào
trong “Mùa lạc”, Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”…
“Mọi chân lí sẽ trở nên sai lầm, nếu chúng ta cứ xét đoán nó trên cơ sở
của những kinh nghiệm hàng ngày” (Ph. Ăngghen). Chân lí nghệ thuật trong
tác phẩm văn học cũng vậy.
Thế giới hình tượng trong tác phẩm được xây dựng nên từ các chi tiết
nghệ thuật. Tìm hiểu tác phẩm phải luôn xuất phát từ chi tiết. Mỗi chi
tiêt trong tác phẩm là một ô cửa mở ra cả một thế giới, là những “chi
tiết mang thai” (Hêghen), bởi nó có khả năng sinh nở ra những ý nghĩa
mới.
Tài năng của một nhà văn lớn bao giờ cũng được làm nên từ những chi tiết
nhỏ. Vì vậy, về văn xuôi, các em nhất định phải nắm được diễn biến câu
chuyện, cách kể và giọng điệu của nhà văn, nhân vật trung tâm và những
chi tiết, sự kiện xoay quanh nhân vật trung tâm đó.
Về thơ, phải nắm được cảm hứng chủ đạo của nhà thơ, kết cấu cảm hứng của
bài thơ, đoạn thơ, những chi tiết, hình ảnh mà nhà thơ sử dụng để bộc
lộ cảm xúc.
Về kịch, phải nắm được những mâu thuẫn, xung đột, các lời thoại quan
trong…Từ các chi tiết nghệ thuật ấy, tìm ra tư tưởng và tình cảm mà nhà
văn gửi gắm cũng như tài năng nghệ thuật của nhà văn.
Chẳng hạn, “Đào đã đứng tựa cột bương, cả thân người trên bị mái gianh
che tối” là một chi tiết thể hiện cái nhìn tinh tế và nhân ái của nhà
văn. Nguyễn Khải đã dùng bóng tối của mái gianh để che đi cái xấu xí,
thua thiệt trong ngoại hình của Đào, đồng thời làm nổi bật hơn vẻ đẹp
của niềm khát khao hạnh phúc.
Không nên bỏ qua các chi tiết quan trọng, cũng không nên quá sa đà vào
phân tích chi tiết, để tránh tình trạng chỉ thấy cây mà không thấy rừng.
Thực hiện phương châm tăng cường chất văn trong việc dạy và học văn,
cũng cần bám sát văn bản ngôn từ và thế giới hình tượng của tác phẩm,
chú ý giọng điệu, kết cấu tác phẩm.
Chẳng hạn bài thơ “Đây thôn Vĩ dạ” của Hàn Mặc Tử được kết cấu toàn bằng
những lời ướm hỏi, ba khổ thơ là ba câu hỏi liên tiếp, nên bài thơ sẽ
chủ yếu thể hiện niềm băn khoăn day dứt của con người, khát vọng chủ
quan của nhà thơ chứ không chỉ là vấn đề “vịnh cảnh hay tỏ tình”.